Bà Đinh Thị Phượng 37 tuổi, ngụ tại quận 8, TP.HCM, bị chứng ra mồ hôi tay từ nhỏ. Là công nhân may nên việc ra mồ hôi tay, mồ hôi đầu đã ảnh hưởng rất nhiều đến công việc của bà.
Đầu tuần này, sau khi cắt hạch thần kinh giao cảm ngực qua nội soi với giá độ 4 triệu đồng, tay bà không còn ra mồ hôi như trước nữa.
Trước đó, bệnh nhân Tr.T.H., 22 tuổi đã được phẫu thuật qua ngả nội soi lồng ngực để điều trị chứng đổ mồ hôi tay. Lần phẫu thuật này có áp dụng kỹ thuật mới: bệnh nhân nửa nằm nửa ngồi, vào khoang lồng ngực bằng hai lỗ trocart rất nhỏ, vết sẹo hầu như không thấy sau hai tháng và thời gian phẫu thuật chỉ mất 30 phút cho cả hai bên. Vừa cắt xong, bàn tay đã ấm hẳn lại, mồ hôi tay không còn ra nữa.
Hiện nay, ngoài các bệnh viện khác ở TP.HCM, mỗi tuần chúng tôi phẫu thuật 2-3 trường hợp đổ nhiều mồ hôi tay.
Bệnh thường gặp
Đổ mồ hôi bù trừ
Trước khi mổ bệnh nhân được giải thích rõ khả năng đổ mồ hôi bù trừ tại những vị trí khác như nách, thân mình, mông chiếm trên 20% số bệnh nhân được phẫu thuật. Có nhiều công trình nghiên cứu tại Nhật cho thấy tỉ lệ tăng tiết mồ hôi bù trừ có thể trên 50%. Chính hiện tượng này làm giảm tính chất ngoạn mục của phẫu thuật, tuy nhiên nhiều bệnh nhân đã chấp nhận được. Hiện nay, với một số cải tiến kỹ thuật trong quá trình phẫu thuật, các thầy thuốc VN đã làm giảm tỉ lệ tăng tiết mồ hôi bù trừ xuống rất nhiều.
Một số biến chứng khác có thể xảy ra trong điều trị như: tràn khí màng phổi chiếm 2,7%, tràn khí dưới da 2%, tràn máu màng phổi 0,1-1%, xẹp một phân thùy phổi 0,4%, đau sau mổ hay còn gọi là đau giao cảm, xảy ra trong ba tháng đầu, đau ở vai và mặt ngoài cánh tay mà nguyên nhân của nó là tình trạng tăng tính nhạy cảm của da vùng không cắt thần kinh giao cảm.
Bệnh đổ mồ hôi tay là một chứng bệnh thường gặp. Tác giả Adar tại Israel nhận thấy tỉ lệ mắc bệnh là 1-2 người trong 1.000 dân. Tại VN, tuy chưa có một thống kê chính xác nhưng theo GS Nguyễn Thường Xuân, Bệnh viện Việt Đức, trong hơn 12 năm (1977-1989) đã điều trị 600 bệnh nhân.
Phần lớn bệnh nhân mắc chứng bệnh này còn khá trẻ, tuổi đời chỉ trên dưới 20. Mồ hôi tay ra nhiều ảnh hưởng rất lớn đến thao tác nghề nghiệp, có nhiều người phải bỏ nghề và hầu như không có người yêu vì mặc cảm. Cũng chính vì mặc cảm nên các giao tiếp xã hội bị thu hẹp, họ trở nên lầm lì ít nói, đôi lúc cộc cằn.
Hiện tượng tăng tiết mồ hôi là do tình trạng cường giao cảm của người bệnh. Ở những bệnh nhân này phương pháp điều trị chủ yếu là làm sao tác động lên hệ thống hạch thần kinh giao cảm. Với đổ mồ hôi tay hoặc nách, cần phải hủy bỏ các hạch thần kinh giao cảm trong lồng ngực vốn chi phối hoạt động tiết mồ hôi ở tay và nách của bệnh nhân.
Một số bệnh nhân đổ mồ hôi nhiều sau một số bệnh như lao phổi, tiểu đường, ung thư, hội chứng cường giáp và nhất là ở bệnh nhân béo phì. Việc điều trị những trường hợp này chỉ cần chữa các bệnh gây ra chứng đổ mồ hôi nhiều là sẽ đỡ hoặc hết đổ mồ hôi.
Cắt là tốt nhất
Có nhiều phương pháp điều trị chứng đổ mồ hôi tay. Với các thầy thuốc nội khoa, những thuốc thường được sử dụng để làm giảm bớt mồ hôi là các thuốc ức chế giao cảm, các thuốc làm giãn mạch ngoại vi và các thuốc ức chế kênh canxi... Nhưng nhìn chung đều không có hiệu quả, trong khi đó bệnh nhân lại bị những tác dụng phụ của thuốc rất khó chịu.
Phương pháp tiêm nước nóng vào hạch thần kinh giao cảm để diệt các sợi giao cảm cũng cho kết quả khá tốt. Tuy nhiên, nhiều khi do không kiểm soát được mức độ lan rộng của nhiệt, khiến những cơ quan khác cạnh hạch cũng bị tổn thương.
Từ lâu các thầy thuốc ngoại khoa đã đề ra phương pháp cắt hạch thần kinh giao cảm để điều trị chứng đổ mồ hôi tay. Các hạch ngực 2 và 3 chi phối việc bài tiết mồ hôi của bàn tay và cánh tay, do đó chỉ cần cắt hai hạch này là đủ.
Ngày nay, tại hầu hết các nước trên thế giới và ở các cơ sở phẫu thuật lồng ngực và tim mạch ở nước ta đều áp dụng kỹ thuật cắt thần kinh giao cảm ngực qua ngả nội soi để điều trị chứng đổ mồ hôi tay. Kỹ thuật này có nhiều ưu điểm so với phương pháp mổ hở kinh điển: xâm nhập tối thiểu, giảm được các biến chứng, rút ngắn thời gian nằm viện.
Thêm vào đó, phẫu thuật này còn rút ngắn được thời gian mổ, các đường rạch tối thiểu, giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh viêm gan, AIDS do không đụng chạm. Nhất là ít đau sau mổ, đạt tiêu chuẩn thẩm mỹ.
(VNDOC 's Blog - Theo TT)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét